🔮 Tràng Giang Thuộc Thể Thơ Gì

Những người bị đau nhức xương khớp nên ăn gì và kiêng gì để mau khỏi bệnh. Nhiều bệnh nhân chủ quan và cho rằng việc ăn uống không ảnh hưởng đến bệnh đau nhức xương khớp. Nhưng trên thực tế nó lại giữ vai trò hết sức quan trọng. Một chế độ ăn lành mạnh Trang chủ . CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH QUẢNG BÌNH - PHIÊN BẢN CHẠY THỬ NGHIỆM giải trí khu vực rừng Tú Làn thuộc Ban Quản lý rừng phòng hộ Minh Hóa giai đoạn 2022 - 2030. Xem tiếp. Bác dạy: Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân Trang Giang là cách đọc chệch âm của " Trường giang" nghĩa là sông dài. Tràng Giang là một tác phẩm của nhà thơ Huy Cận được viết vào một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng trước sông Hồng mênh mang sóng nước.Tràng giang là bài thơ điển hình cho hồn thơ ảo não nhiều nỗi buồn của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Mệnh danh là "hòn ngọc của biển Đông", thành phố Nha Trang là điểm đến quen thuộc đối với các #teamKlook yêu biển đảo. Dường như chẳng thể nào kể hết hoạt động du hí hấp dẫn hay địa điểm tham quan nổi tiếng ở Nha Trang, từ "phượt" qua các hòn đảo đẹp ở Nha Trang đến tận hưởng dịch vụ Tuy nhiên chúng con đang có vấn đề không biết nên trang hoàng bàn thờ như thế nào cho đúng? Chúng con sống ở nhà riêng không phụ thuộc vào 2 gia đình. Nếu thờ chung cả thờ Phật, thờ chúa, thờ ông bà trên 1 bàn thờ chúng con thấy không ổn, nhất là những ngày Tết và giỗ Khách sạn Mekong Mỹ Tho (Mekong My Tho Hotel ) 1A Tết Mậu Thân, Phường 4, TP Mỹ Tho, Tiền Giang, Mỹ Tho, Mỹ Tho (Tiền Giang), Việt Nam - TRÊN BẢN ĐỒ. Đỗ xe và Wi-Fi luôn miễn phí, vì vậy quý khách có thể giữ liên lạc, đến và đi tùy ý. Nằm ở vị trí trung tâm tại M? Tài sản đảm bảo dùng để vay vốn ngân hàng là những giấy tờ như: nhà đất, giấy tờ có giá trị do ngân hàng phát hành, phương tiện giao thông, sổ tiết kiệm, bất động sản có sổ đỏ hoặc sổ hồng hay hợp đồng bảo hiểm có giá trị…. Tài sản đảm bảo phải Bao bọc xung quanh An Giang điểm đến này là cảnh núi non trập trùng nên bức tranh thiên nhiên nơi đây thật nên thơ, hữu tình có núi non có mây trời và hồ nước rộng. Tại đây, bạn có thể tham quan được rất nhiều điểm du lịch ở An Giang như cánh đồng hay chùa Tà Pạ. Đây đều là những điểm đến được rất nhiều khách du lịch yêu thích. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn tìm hiểu về thể loại truyền kì là gì? Ý nghĩa của thể loại truyền kỳ như thế nào? Những câu hỏi này sẽ được giải đáp trong chuyên mục bài viết dưới đây, các bạn hãy cùng tìm hiểu nhé. thuộc thể loại văn học viết. Thể odapn. Giáo dụcTrắc nghiệm Thứ sáu, 28/5/2021, 1900 GMT+7 Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của nhà thơ Huy Cận 1919-2005. Theo tác giả, bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939, cảm xúc được khơi gợi từ cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước. Bài thơ với lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài", toàn văn như sauSóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô giạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ Tác phẩm văn học 1930-1975 tập III, nhà thơ Huy Cận viết "Tràng giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm. Về để ngoạn cảnh Hồ Tây và sông giang là bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn. Nhìn dòng sông lớn gợi ra những lớp sóng, tôi cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra như những lớp và nước vốn là hai khái niệm gần gũi nhưng rồi không phải bao giờ cũng gắn bó. Thuyền gợi lên một cái gì nổi nênh như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là con thuyền đang lênh đênh thả mái xuôi dòng và như có một nỗi buồn chia ly, xa cách đang đón chọn lọc nhiều khả năng biểu hiện hình ảnh. Củi một cành khô lạc mấy dòng không phải là một thân gỗ xuôi dòng, một đám bèo xanh trôi nổi mà là một cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sóng".Tràng giang được viết khi tác giả tròn 20 tuổi, được chọn đăng trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam 1932-1941. Bài thơ này được đưa vào giảng dạy trong chương trình Văn học lớp 11 gần 30 năm 2 Bài thơ "Tràng giang" nằm trong tập thơ nào của Huy Cận?a. Lửa thiêngb. Trời mỗi ngày lại sángc. Hạt lại gieo Câu hỏi Tràng Giang là gì? Lời giải Trang Giang là cách đọc chệch âm của “ Trường giang” nghĩa là sông đang xem Tràng Giang là gì Ngữ Văn 11 Tràng Giang là một tác phẩm của nhà thơ Huy Cận được viết vào một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng trước sông Hồng mênh mang sóng giang là bài thơ điển hình cho hồn thơ ảo não nhiều nỗi buồn của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Thông qua hình ảnh sông dài, trời rộng Huy Cận đã thể hiện sự nhỏ bé, đơn độc, lạc lõng của con người trước dòng đời Sau đây, mời các bạn hãy cùng với Sài Gòn Tiếp Thị tìm hiểu thêm về tác phẩm Tràng Giang của Huy Cận qua bài viết dưới. Tràng Giang – Huy Cận Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy dòng. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô lieu. Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. I. TÁC GIẢ 1. Tóm tắc tiểu sử Huy Cận – Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận. Ông sinh năm 1919 và mất 2005. Quê hương của ông thuộc Đức Ân, Vũ Quang, Hà Tĩnh ngày nay. – Ông đã có những đóng góp rất tích cực cho sự nghiệp giải phóng nước nhà, và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền đương thời. 2. Đặc điểm thơ của Huy Cận – Huy Cận là một người yêu thơ ca Việt Nam, thơ Đường và cũng chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp. Mang nhiều đặc điểm của phong trào thơ mới, thơ của Huy Cận hàm súc và giàu chất suy tưởng, triết lí. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong thơ của Huy Cận là luôn thấm đượm nỗi buồn, ông hay mượn cảnh vật để miêu tả nỗi buồn, sự hoang vắng trong lòng mình. Sự nghiệp thơ văn của ông có 2 giai đoạn – Trước Cách mạng tháng tám, ông là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới, cái tôi, nỗi buồn, sự cô đơn trước thời cục bấy giờ. Tác phẩm tiêu biểu Lửa thiêng 1937-1940, Vũ trụ ca 1940-1942 – Sau Cách mạng tháng tám, Huy Cận ít làm thơ hơn nhưng thơ ông đã có nhiều đổi mới, chủ yếu ca ngợi về đất nước và cuộc sống mới của nhân dân Tác phẩm tiêu biểu Trời mỗi ngày lại sáng 1958, Đất nở hoa 1960 II/ TÁC PHẨM a. Hoàn cảnh ra đời bài Tràng Giang – Tác phẩm Tràng Giang được ra đời vào một buổi chiều mùa thu năm 1939 khi tác giả đứng trước sông Hồng mênh mang sóng nước… – Tràng Giang là tác phẩm được in trong tập Lửa Thiêng. b. Nội dung bài Tràng Giang – Nội dung xuyên suốt bài thơ Tràng Giang là sự cô đơn, lẻ loi trước cảnh trời rộng sông dài. Qua đó tác giả muốn thể hiện tính yêu nước rất âm thầm nhưng vô cùng thiết tha. – Khi đứng trên chính quê hương đất nước của mình mà Huy Cận vẫn cảm thấy cô đơn mất mát bởi vì từ sâu trong hồn ông, ông không cảm nhận được đây là quê hương của mình. Bởi vì đất nước chưa giành được chính quyền, vẫn còn đang bị đô hộ bởi thực dân Pháp. c. Bố cục – Ba khổ thơ đầu Bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của nhà thơ. – Hai khổ thơ cuối Tình yêu quê hương, đát nước thầm kín, sâu sắc. d. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm và lời đề từ Nhan đề – Nhan đề của bài thơ là “Tràng Giang” cũng là một trong những dụng ý nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận. “Tràng Giang” vốn là hai từ Hán Việt để chỉ dòng sông dài. – Trong Tiếng Việt, có hai từ nhằm miêu tả chiều dài đó là từ “Tràng” và từ “Trường”. Ở đây nhà thơ Huy Cận không viết là “Trường Giang” mà lại viết là “Tràng Giang”. + Bởi chữ “Trường” chỉ đơn thuần là miêu tả chiều dài. + Còn chữ “Tràng” với âm “vang” vốn là âm mở, nó không chỉ miêu tả chiều dài của dòng sông mà còn gợi lên chiều rộng của con sông. ⇒ Đó là một con sông được vẽ lên với không gian ba chiều sâu chót vót; rộng mênh mông; dài dằng dặc. Dòng sông càng mênh mông, càng vô biên, vô cùng bao nhiêu thì tâm hồn thi nhân càng cô liêu, cô sầu bấy nhiêu. – Tràng giang là bài thơ điển hình cho hồn thơ ảo não nhiều nỗi buồn của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Thông qua hình ảnh sông dài, trời rộng Huy Cận đã thể hiện sự nhỏ bé, đơn độc, lạc lõng của con người trước dòng đời. Nhan đề “Tràng giang” không chỉ gợi ra sức hấp dẫn đầu tiên cho bài thơ mà còn góp phần thể hiện được tư tưởng chủ đề cũng như những tình cảm thầm kín mà Huy Cận thể hiện trong bài thơ. – Thông qua nhan đề có thể thấy được tài năng, tầm vóc tư tưởng của các nhà thơ, bởi với nhan đề này các nhà thơ đã vượt ra giới hạn của một tên gọi mà còn khái quát được những nội dung tư tưởng chủ đạo của bài thơ. Huy Cận đã lựa chọn cho thi phẩm của mình một nhan đề ngắn gọn nhưng đầy sức chứa “Tràng giang”. Lời đề từ – Bâng khuâng thể hiện được nỗi lòng của nhà thơ, thấy mênh mông, vô định, khó tả nổi cảm xúc trước không gian rộng lớn. – Trời rộng, được nhân hóa “nhớ sông dài” cũng chính là ẩn dụ nỗi nhớ của nhà thơ. – Thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả + Nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la bát ngát + Hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, tâm sự của cái tôi cô đơn mang nhiều nỗi niềm – Câu này là khung cảnh để tác giả triển khai toàn bộ cảm hứng. e. Phân tích tác phẩm Bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của nhà thơ * Khổ 1 – Hình ảnh sóng gợn, thuyền, nước song song => cảnh sông nước mênh mông, vô tận, bóng con thuyền xuất hiện càng làm cho nó hoang vắng hơn – Củi 1 cành khô > sự chìm nổi cô đơn, biểu tượng về thân phận con người lênh đênh, lạc loài giữa dòng đời – Tâm trạng buồn điệp điệp => từ láy gợi nỗi buồn thương da diết, miên man không dứt => Với khổ thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu và cách gieo vần nhịp nhàng và dùng nhiều từ láy, khổ thơ đã diễn tả nỗi buồn trầm lắng của tác giả trước thiên nhiên. * Khổ 2 – Cảnh sông cồn nhỏ lơ thơ, gió đìu hiu gợi lên cái vắng lặng, lạnh lẽo cô đơn đến rợn ngợp – Âm thanh Tiếng chợ chiều gợi lên cái mơ hồ, âm thanh yếu ớt gợi thêm không khí tàn tạ, vắng vẻ tuy thoáng chút hơi người – Hình ảnh Trời sâu chót vót cách dùng từ tài tình, ta như thấy bầu trời được nâng cao hơn, khoáng đãng hơn – Sông dài, trời rộng >Sự tương phản giữa cái nhỏ bé. Sự tương phản giữa cái nhỏ bé và cái vô cùng gợi lên cảm giác trống vắng, cô đơn => Với cách gieo vần tài tình, âm hưởng trầm bổng, Huy Cận như muốn lấy âm thanh để xoá nhoà không gian buồn tẻ hiện hữu nhưng không được. Nhà thơ cố tìm sự giao cảm với vũ trụ cao rộng nhưng tất cả đều đóng kín. * Khổ 3 – Hình ảnh ước lệ “bèo” để diễn tả thân phận,kiếp người chìm nổi – Câu hỏi “về đâu” gợi cái bơ vơ, lạc loài của kiếp người vô định – Không cầu, không đò không có sự giao lưu kết nối đôi bờ niềm khao khát mong chờ đau đáu dấu hiệu sự sống trong tình cảnh cô độc => Bài thơ tạo nên bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ + Không gian mênh mông, bao la, rộng mở + Cảnh vật hiu quạnh,hoang vắng, đơn lẻ, hiu hắt buồn + Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường Thi Các hình ảnh cổ thuyền, nước, nắng, sông dài, trời rộng, bóng chiều, khói hoàng hôn… + Tràng Giang vẫn chưa nét mới, nét hấp dẫn của thơ hiện đại âm thanh tự nhiên, âm thanh cuộc sống bình dị, mộc mạc được đưa vào thơ + Sự hòa quyện, đan cài giữa chất cổ điển, sự gần gũi, thân thuộc tạo cho bài thơ vẻ đẹp độc đáo, đơn sơ mà tinh tế, cổ điển mà hiện đại . => Ba khổ thơ biểu hiện cho niềm tha thiết với thiên nhiên tạo vật. Đó là một bức tranh thiên nhiên thấm đượm tình người, mang nặng nỗi buồn bâng khuâng, nỗi bơ vơ của kiếp người. Nhưng đằng sau nỗi buồn về sông núi là nỗi buồn của người dân thuộc địa trước cảnh giang sơn bị mất chủ quyền. Tình yêu quê hương Hình ảnh ước lệ, cổ điển Mây, chim…=> Vẽ lên bức tranh chiều tà đẹp hùng vĩ, êm ả, thơ mộng – Tâm trạng “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” => Âm hưởng Đường thi nhưng tính chất thể hiện mới. => Nỗi buồn tiềm ẩn và bộc phát tự nhiên vì thế mà nó sâu sắc và da diết vô cùng. – Huy Cận thể hiện nỗi buồn trong cảnh nước nhà mất chủ quyền, vì thế ông bơ vơ trước thiên nhiên hoang vắng, niềm tha thiết với tự nhiên, cảnh vật cũng theo đó nhuốm buồn. + Niềm tha thiết với thiên nhiên, tạo vật cũng là niềm thiết tha với quê hương, đất nước + Thực tế, ở phương diện nào đó “Tràng giang” là bài thơ thể hiện tình yêu đất nước, non sông + Nỗi buồn trước cảnh mất nước được hòa quyện trong cảnh vật của tự nhiên, + Thông qua việc miêu tả cảnh vật, ông gián tiếp thể hiện tấm lòng yêu nước và nỗi buồn của mình => Đằng sau nỗi buồn, nỗi sầu trước không gian và vũ trụ là tâm sự yêu nước thầm kín của một trí thức bơ vơ, bế tắc trước cuộc đời Giá trị nội dung – Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, niềm khát khao hòa nhập với đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết. Giá trị ghệ thuật – Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và hiện đại. – Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm. Đăng bởi Sài Gòn Tiếp Thị Chuyên mục Lớp 11, Ngữ Văn 11 Ra đời trong phong trào thơ mới, Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu đặc sắc nhất. Đặc điểm chính của Thơ Mới là cái mới, lạ, chất phương Đông kết hợp với phương Tây, hòa quyện làm nên một phong trào thơ ca với những tác phẩm và những nhà thơ tiêu biểu. Xôn xao bởi nó có nhiều cái mới, cái lạ. Và "buồn" bởi cái thế sự lúc bấy giờ và tâm sự của những nhà thơ mới, họ của nhạy cảm, với bản thân mình và với xã hội đương thời - thơ ơ, dửng dưng. Đó là lí do vì sao ta có thể nói, “Tràng giang” mang âm hưởng sâu sắc của thời đại mà nó ra đời vì nó diễn tả được nỗi buồn của cả một thời đại. Ánh trăng - Lời thảng thốt trước sự thay đổi của lòng người Ý nghĩa nhan đề và lời đề từ Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên “Đoàn thuyền đánh cá” sự chuyển biến trong phong cách thơ Huy Cận Mở đầu bài thơ, một nỗi buồn đậm đặc đã chiếm trọn toàn bộ, như thể định hướng cho cảm xúc chính trong bài thơ Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy dòng. Cái hay nhất trong khổ thơ này là cách gieo vần. Nhà thơ đã viết “tràng giang” thay vì “trường giang” vì vần “ang” tạo cảm giác kéo dài, vừa cả trong không gian lẫn thời gian để có thể diễn tả trọn vẹn hình ảnh của một con sông vừa dài vừa rộng, tạo cảm giác buồn hiu hắt, “buồn điệp điệp” – nỗi buồn chồng chất không thể nào tháo gỡ. Nhà thơ chỉ lựa chọn một vài hình ảnh để miêu tả con sông. Đó là sóng, thuyền, và củi khô. Những hình ảnh đứng độc lập riêng lẻ để diễn tả mức độ cao nhất của sự cô đơn. Thuyền và nước tách đôi, củi lạc lõng trôi một mình. Nhà thơ sử dụng các tính từ diễn tả sự cô đơn “sầu trăm ngả”, “lạc” một cách rất tài tình và sáng tạo. Tứ thơ “Tràng giang” mang nét cổ điển như thơ xưa Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Hàn Mặc Tử cũng đã từng có những câu thơ Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? Đặc biệt cách sử dụng đảo ngữ khi đưa số từ “một” ra sau hình ảnh củi càng làm tăng thêm nỗi hiu hắt của lòng người. Nhấn mạnh sự khô héo thiếu sức sống của tự nhiên. Có thể nói đây là cảm hứng chung của thời đại, khi các nhà thơ như bị “đánh lưới” trước hàng trăm con đường Tôi là con nai bị chiều đánh lưới, Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối Mà “Tràng giang” là bài thơ thể hiện rõ nhất nỗi buồn thời đại đó. Khổ thơ thứ hai tiếp tục nối dài cảm xúc ấy Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Trong khổ thơ này có xuất hiện dấu hiệu của sự sống “chợ chiều” song chỉ là một nét thoáng qua trong chốc lát. Những hình ảnh “hồn nhỏ”, “làng xa”, “sông dài”, “trời rộng” diễn tả không gian đang càng được mở rộng ra tuyệt đối. Nhịp thơ vẫn vô cùng chậm rãi, diễn tả sự buồn chán của tác giả. Huy Cận thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả cảnh hoang vu, vắng vẻ hai bên bờ sông "Lơ thơ" - thưa thớt, ít ỏi, " đìu hiu" - vắng lặng, ít người. Trên "cồn nhỏ" làn gió phảng phất không khí buồn, ảm đạm của chốn ít người, thiếu sức sống. Nó u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên chợ chiều. "Đâu" diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bám víu. Đỉnh cao của ngôn từ được thể hiện ở từ “sâu chót vót”, tính từ chót vót là từ sử dụng cho độ cao lại đặt cạnh tính từ “sâu”. Chính sự sáng tạo này đã mở ra một không gian thăm thẳm, nơi mà chính lòng của ông cũng đang chán nản và bế tắc. Các cặp từ đối nhau “nắng xuống” – “trời lên”, “sông dài”- “trời rộng” đã diễn tả sự chuyển động của cảnh vật, đồng thời giúp vẽ nên cảnh vật đa chiều, đa hướng. Khổ thơ đã vẽ lên một bức tranh thiếu sức sống, lạc lõng và cô đơn của thiên nhiên rộng lớn. Hoài Thanh – tác giả Thi nhân Việt Nam – viết “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh...”. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài thơ “Tràng Giang”. Nỗi buồn trong “Tràng giang” không phải là nỗi buồn cá nhân, mà là nỗi sầu của thế hệ, sầu thời thế, tự thấy mình như bơ vơ, không lối thoát Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu. Hình ảnh cánh bèo là một hình ảnh cổ điển của thi ca Việt Nam, thường xuyên diễn tả sự bơ vơ. Cánh bèo của Huy Cận, không xuất hiện nhỏ lẻ mà xuất hiện theo “hàng nối hàng”, song chính hình ảnh chỉ toàn là bèo đấy đã tạo cảm giác nhàm chán, bất định trong cuộc sống. Sông vắng đò, vắng cả những chiếc cầu. Cầu và đò là những hình ảnh gợi nhắc về sự kết nối, nhưng nhà thơ lại loại bỏ hoàn toàn, như thể chính nhà thơ đang bị ngăn cách với thế giới loài người, hoặc tư tưởng của nhà thơ đã không thể tìm được sự đồng điệu với mọi người, nên đành gửi tâm tư vào thiên nhiên rộng lớn. Với câu thơ cuối của khổ tác giả sử dụng nhiều màu sắc để chấm phá cho bức tranh. "Bờ xanh tiếp bãi vàng" - sắc tranh tươi sáng, nổi bật nhưng đi kèm với từ láy "lặng lẽ" làm chìm màu sắc này xuống. Giờ đây hai hình ảnh này không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này cũng làm cho không khí đìu hiu "lây lan" từ vật này sang vật khác. Tất cả sự vật đều nhấn chìm trong cô độc. Sầu nhân thế làm nảy sinh tâm lý về sự vô nghĩa của kiếp người. Tư tưởng hư vô nảy sinh, con người thấy chẳng có gì là bền vững, không có gì là nghĩa lý cả Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết Những sắc màu hình ảnh của trần gian Đó chính là nỗi lòng của Huy Cận, một nhà thơ đang mất phương hướng. Khổ thơ cuối, cảnh vật vẫn ảm đạm đìu hiu Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Từ láy “lớp lớp” diễn tả sự lặp lại, vừa tả cảnh thiên nhiên chỉ toàn mây và núi, vừa tả sự nhàm chán, buồn tẻ trong tâm hồn người nghệ sĩ. Một cánh chim nghiêng đổ cả hoàng hôn xuống vạn vật, dấu hai chấm diễn tả sự nhảy bước của thời gian. Nhà thơ có cái nhìn rất tinh tế khi miêu tả thiên nhiên đầy tráng lệ, hùng vĩ, vận động rất đẹp và thơ. Từng lớp mây vốn nhẹ nhàng trôi giờ tiếp nhau tạo thành những hình núi đẹp đẽ, lớn lao, từng áng mây mang nội lực, mang sức sống bất diệt, trường tồn. Hai câu thơ cuối hé mở về tâm trạng của nhà thơ. Từ láy “dợn dợn” thể hiện nỗi bâng khuâng cô đơn trào dâng trong lòng. Tất cả cảm xúc dồn lại đem đến nỗi “nhớ nhà”. Câu thơ có mượn ý thơ của Thôi Hiệu Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai? Để diễn tả trọn vẹn nỗi nhớ nhà của nhà thơ. Tràng giang là một bài thơ của sầu vạn cổ, thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật của Huy Cận. Bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển cũng như tấm lòng tha thiết đối với quê hương đất nước của nhà thơ. Thảo Nguyên

tràng giang thuộc thể thơ gì